Nhãn đĩa: | CNR |
Kích thước | 12″ |
Tốc độ | 33 RPM |
Số lượng | 1 lp |
Tình trạng | Rất tốt (VG+) |
Đĩa than Francis Goya, De Mooiste TV & Filmmelodieën LP
700,000 ₫
Description
Đĩa than Francis Goya, De Mooiste TV & Filmmelodieën LP
Đĩa than Francis Goya, De Mooiste TV & Filmmelodieën LP
Tracklist
Side A
A1 Once Upon A Time I The West (Era Una Volta Il West) 2:55
A2 Lara’s Theme (Dr. Zjivago) 3:16
A3 Zorba’s Dance 4:36
A4 Theme From “The Deer Hunter” 3:20
A5 Emmanuelle 4:02
A6 Theme From “The Inheritance Of Aphrodite”
Side B
B1 Einsamer Hirte
B2 Bilitis 4:58
B3 Wie Betaalt De Veerman (Who Pays The Ferryman)
B4 Exodus 3:52
B5 Love Story 3:31
B6 Jeux Interdits (Chansons Anonyme) 2:59
GIỚI THIỆU VỀ FRANCIS GOYA
Francis Goya (Tên khai sinh là Francis Weyer), sinh ra tại Liege. Ông là nghệ sĩ ghita người Bỉ.
Weyer đầu tiên chơi cùng Patrick Ruymen trong ban nhạc Les Caraïbes, một ban nhạc cover của Bỉ. Sau đó hai người thành lập ban nhạc Rock Liberty Six vào năm 1965 và chỉ biểu diễn độc một bài hát trước khi giải tán. Weyer sau đó gia nhập ban nhạc J.J. và ban nhạc Plus.
Sinh ra trong một gia đình âm nhạc, ông đã sở hữu một cây đàn guitar lần đầu tiên cho mình khi tuổi 12. Ở tuổi 16, Francis Goya thành lập nhóm nhạc đầu tiên của mình (Les Jivaros) cùng với anh trai của mình, người chơi bộ gõ, và một vài người bạn. Năm 1966, ông đã làm quen với một ca sĩ có tên Lou người đã gia nhập nhóm nhạc rock của Phanxicô, The Liberty Six (sau đó, Lou đã là một nhà sản xuất cho Plastic Bertrand và sáng tác cho anh bài hát Ça plane pour moi và đã đạt được thành công trên toàn thế giới). Năm 1970 Francis Goya được mời tham gia một nhóm nhạc soul chuyên nghiệp JJ Band, mà ông đã thu âm 2 album, Album thứ hai của họ được sản xuất bởi Brian Bennett, bộ gõ dành cho The Shadows. Đĩa than (LP) này được thâu âm ở London cho CBS. Nhờ JJ Band, Francis Goya đã tham gia vào một chương trình lưu diễn khắp châu Âu và châu Phi. Ông cũng trở thành một người chơi guitar studio, và chơi trên nhiều sân khấu thể hiện lối chơi với nhiều phong cách khác nhau, chẳng hạn như với Demis Roussos, The Three Degrees, Vicky Leandros, và những người khác.
Vào những năm 1970s, Weyer bắt đầu dùng cái tên Francis Goya và phát hành album độc tấu Guitar và mandolin. Single “Nostalgia” 1975 của ông, một điệu nhạc do bố ông viết và được Goya viết lại cho guitar, tạo nên cú hích trên toàn thế giới, và trở thành album số 1 tại Bỉ, Hà Lan, Đức, Na Uy, và Brasil. Album mới nhất của Francis Goya chịu ảnh hưởng của phong cách Mỹ Latinh, bao gồm cả 3 album thu âm cùng với ca sĩ người Bolivia Carmina Cabrera.
Nhớ quê hương (Nostalgia)
Năm 1975, ông phát hành album đĩa than (LP) solo đầu tiên của mình là đĩa than Nostalgia LP, và nhanh chóng đạt vị trí hàng đầu trong bảng xếp hạng. Nostalgia là ngọt ngào và giai điệu lãng mạn được viết bởi Francis Goya và cha anh. Đó là khởi đầu của sự nghiệp quốc tế của mình. Tour Francis Goya với màn trình diễn của mình trên khắp thế giới, từ châu Á đến châu Mỹ Latin, Nam Phi, Nga vv giữa các chương trình lưu diễn, ông thâu âm ít nhất một album mới; số lượng của họ đã đạt được 35 đĩa than (LP) và CD, và hầu hết trong số các album đĩa than LP và CD đều đạt danh hiệu đĩa vàng hay đĩa bạch kim. Tính đến hôm nay, Francis Goya đã bán được hơn 28 triệu album của mình trên toàn thế giới; đây là một trường hợp khá hiếm hoi cho nhạc khí. Francis Goya chỉ đạo dàn nhạc Eurovision tại Rome (trong màn trình diễn của Luxembourg) vào năm 1991 và ở Ireland vào năm 1993.
Dịch bởi Đĩa than JOLIE, nguồn Wikipedia